Page 115 - Toan canh nguon nhan luc DBSCL va vai tro cua truong DHCT
P. 115
4.2.7 Mô hình năng lực và đào tạo
Trong xã hội, một tổ chức, doanh nghiệp hay một hệ thống hoạt động
có ba tiêu chí để thể hiện sự thành công bao gồm nguồn lực con người (chất
lượng), sản phẩm được tạo ra và lợi ích mang lại (lợi ích xã hội, lợi ích kinh
tế) của đơn vị (Chakrabarty et al., 2010). Trong ba thành phần trên, con người
là yếu tố quan trọng nhất, tài sản giá trị nhất (Kwon, 2009) quyết định và tác
động đến hai yếu tố còn lại. Thang đo chất lượng nguồn nhân lực được thể
hiện thông qua bốn năng lực cơ bản (Ulrich, 1997) gồm (1) kiến thức công
việc, (2) kiến thức thực hành tốt, (3) những kỹ năng quản lý sự thay đổi, và
(4) giá trị/chuẩn cá nhân.
Mối liên hệ giữa năng lực và thực hiện công việc được đề cập bởi
Boyatzis (1982) trong mô hình thực hiện công việc hiệu quả. Mô hình này chỉ
ra rằng một hành động hiệu quả, và vì vậy dẫn đến kết quả công việc tốt, sẽ
xảy ra khi ba thành phần: môi trường tổ chức, yêu cầu công việc, và năng lực
cá nhân đều nhất quán và phù hợp. Hình 4.2 trình bày mô hình thực hiện công
việc hiệu quả. Theo mô hình này, năng lực cá nhân trình bày khả năng của cá
nhân thực hiện/xử lý tình huống công việc theo đòi hỏi trách nhiệm của công
việc/tình huống công việc đó. Các đòi hỏi công việc này được xem như là yêu
cầu công việc.
Năng lực cá nhân là đặc tính hay khả năng của một cá nhân thực hiện
những hành động cụ thể đối với công việc hay tình huống công việc. Thực
hiện công việc hiệu quả là kết quả của công việc theo yêu cầu thông qua các
hành động cụ thể trong khi duy trì hay tuân thủ nhất quán với chính sách, quy
định, thủ tục và điều kiện của môi trường tổ chức. Thành phần yêu cầu công
việc tiết lộ khả năng cá nhân có thể làm gì và tại sao họ có thể làm được theo
một cách thức nào đó.
Tương tự, Bộ Phát triển Quốc tế của Anh cũng đưa ra khung năng lực
nòng cốt bao gồm nhóm năng lực liên quan đến công việc (yêu cầu công việc),
nhóm năng lực liên quan đến con người (cá nhân) và nhóm năng lực liên quan
đến tổ chức (Hình 4.2b). Với khái niệm này, DFID (2010) xác định mỗi nhóm
năng lực nòng cốt (core competencies) bao gồm ba thành thành phần chính.
Năng lực (competency) là danh nghĩa hay tên của năng lực nòng cốt
(core competency) thí dụ như khả năng giao tiếp với người khác;
Mô tả năng lực (competency descriptor) là sự định nghĩa hay diễn giải
năng lực nòng cốt là gì, thí dụ khả năng giao tiếp được đánh giá thông qua sự
101