Page 118 - Toan canh nguon nhan luc DBSCL va vai tro cua truong DHCT
P. 118
yếu tố tạo nên hợp phần năng lực nòng cốt DFID (2010). Điểm chung nhất
của các nghiên cứu trên và một nghiên cứu khác của Sudsomboon (2007) đó
là năng lực được xem xét ở ba góc độ: nhu cầu cá nhân, yêu cầu tổ chức và
yêu cầu công việc.
Cấp 4
Quản lý cấp
cao (Ban giám đốc,
trợ lý GĐ, trưởng
bộ phận đơn vị)
Cấp 3
Người quản lý cấp trung, chuyên gia
cao cấp, chuyên gia chính sách, vai trò
dự án (thí dụ: kỹ sư chính các hệ
thống, quản lý chính sách,
kế toản trưởng)
Cấp 2
Trưởng nhóm, lãnh đạo tổ, điều phối nhóm (thí dụ: điều
phối dịch vụ công, tư vấn nhân sự, điều phối kinh
doanh, tổ trưởng bộ phận sản xuất, dịch vụ)
Cấp 1
Nhân viên, cán bộ hành chính, chuyên viên (thí dụ: hỗ trợ dự án, văn thư,
an ninh, trợ lý nhân sự, nhân/chuyên viên các sở ban ngành kỹ thuật, tài
chính-ngân sách, văn xã)
Hình 4.3. Khung năng lực ở 4 cấp độ vị trí công việc khác nhau
(The Greater London Authority, 2009)
Năng lực một cá nhân được hình thành, phát triển và chịu tác động của
rất nhiều yếu tố như môi trường làm việc, quá trình đào tạo, kinh nghiệm tích
lũy, cơ hội cải thiện và nâng cao kỹ năng trong công việc. Trong đó, đào đạo
và giáo dục là hình thức phổ biến và kinh điển được áp dụng để cải thiện năng
lực. Đào tạo dựa vào yêu cầu năng lực là một hình thức cung ứng lao động
theo nhu cầu thị trường lao động, với cách tiếp cận này, chương trình đào tạo
dựa vào một bộ các chuẩn năng lực được thiết kế bởi người sử dụng lao động
cho yêu cầu công việc hiện tại.
104