Page 290 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 290
+ Tận dụng da và vảy cá nước ngọt sản xuất collagen và gelatin là hướng
nghiên cứu có hiệu quả và được áp dụng rộng rãi trong những năm gần đây.
Mahboob et al. (2014) đã nghiên cứu tận dụng da, vảy và vây của cá chép và
cá mè để sản xuất collagen. Kết quả thu được cho thấy collagen từ phụ phẩm
của hai loại cá nước ngọt này là collagen nhóm 1 có ứng dụng rộng rãi trong
công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm. Bên cạnh đó, Mahmoodani
et al. (2014) và Boran (2010) đã thử nghiệm chiết rút gelatin từ da cá tra và
da cá chép. Gelatin từ hai loại da này được chiết rút ở nhiệt độ 60-70 C thu
được thành phẩm có độ nhớt, độ bền gel tương đương với gelatin thương mại
chiết rút từ nguồn nguyên liệu truyền thống là da heo và da bò.
+ Tận dụng xương cá sản xuất bột canxi cũng là hướng nghiên cứu mới,
có hai phương pháp sản xuất bột canxi từ xương cá là phương pháp hóa học
và phương pháp enzyme. Hemung (2013) đã tận dụng xương cá rô phi sản
xuất bột canxi. Sản phẩm bột canxi xương cá rô phi có hàm lượng khoáng
chiếm 75,83%, màu sắc trắng sang và không mùi. Bubel et al. (2015) đã tận
dung xương cá tuyết và cá hồi sản xuất bột canxi, sản phẩm thu được có hàm
lượng canxi lần lượt là 27,70 và 24,92%.
Các nghiên cứu tận dụng phụ phẩm quá trình sản xuất tôm chủ yếu tập
trung ở mảng chiết rút chitin, chitosan và glucosamine từ vỏ tôm. Nhiều
nghiên cứu sản xuất chitosan bằng phương pháp sinh học và phương pháp
hóa học đã được công bố (Toan et al., 2006; Younes et al., 2012). Tận dụng
nguồn vỏ tôm sản xuất glucosamine cũng là hướng nghiên cứu mới. Mặc dù
glucosanmine có thể sản xuất bằng nhiều con đường khác nhau như lên men
bắp và lúa mì hay từ chitin vỏ giáp xác nhưng phương pháp dùng chitin từ vỏ
giáp xác là phương pháp phổ biến nhất. Martha et al. (2015) đã tận dụng vỏ
tôm sản xuất glucosamine hydrochloride. Sản phẩm thu được có độ tinh khiết
là 99,86% và có độ tương thích cao với glucosamine thương mại.
Ngoài ra, thu nhận enzyme từ các nguồn phụ phẩm thủy sản cũng rất
được chú trọng. Hu et al. (2002) đã nghiên cứu trích ly, kết tủa phân đoạn
hoạt tính protease từ phụ phẩm tôm (đầu, thân, đuôi) trong chế biến. Kết quả
khảo sát đã chứng tỏ tiềm năng của việc trích ly cả endoprotease và
exoprotease từ nguồn nguyên liệu này. Salamone et al. (2009) đã đề xuất trích
ly protease tổng số và collagenase từ gan tụy của Eriphia verrucosa và
Palimurus elephs ở Mazara (Ý). Trước đó, Klomklao et al. (2007a) cũng đã
đề xuất trích ly, tinh sạch và xác định tính chất của pepsin thu được từ dạ dày
của Coryphaenoides pectoralis. Trong khi đó, nghiên cứu của Simpson (2000)
279