Page 288 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 288

các thành phần chất lượng của cá hồi được chế biến trong quá trình trước tê
          cứng so với chế biến sau tê cứng và biện pháp kéo dài thời gian tê cứng từ 2
          đến 4 ngày để chế biến. Nhìn chung, thành phần sinh hóa hoặc các yếu tố nội
          tại và mối tương quan với các yếu tố bên ngoài của cá, góp phần đáng kể làm
          hư hỏng cá do nhiễm vi sinh vật ban đầu (Huss et al., 1997). Các đặc tính vật
          lý, hóa học và vi khuẩn trong cá thay đổi theo loài, thức ăn, mùa (Choubert et
          al., 1982), chu kỳ sinh sản, phương pháp bắt cá, ngư trường (Whittle et al.,
          1980) kích thước, tuổi tác, môi trường, số lượng vi sinh vật ban đầu và vị trí
          địa lý. Cá nuôi có thể biến đổi các thành phần hóa học, nhưng trong trường
          hợp này một số yếu tố được kiểm soát, do đó thành phần hóa học có thể dự
          đoán trước được. Trong thời gian làm lạnh cá luôn xảy ra một số biến đổi,
          trong số những biến đổi thì thay đổi protein và lipid không đáng kể, sự biến
          đổi của nucleotide với sự hình thành tiếp theo của các amin (dễ bay hơi và
          hữu cơ), hypoxanthine và hoạt động của một số vi khuẩn (Surti et al., 2001).
          Những biến đổi này sẽ làm giảm chất lượng cảm quan, mất giá trị dinh dưỡng
          và thay đổi tính chất vật lý của cơ cá. Nghiên cứu của Ladrat et al. (2006)
          cũng cho thấy sự biến đổi về đặc tính cấu trúc, pH là các biến đổi đầu tiên và
          rõ rệt nhất ở cơ thịt cá chỉ vài giờ sau khi giết mổ. Đồng thời, nghiên cứu cũng
          khẳng định vai trò của bảo quản lạnh trong việc làm chậm sự biến đổi sau khi
          chết và duy trì chất lượng cá.

               Các nghiên cứu gần đây về bảo quản tôm cá đang tiếp cận hướng sử
          dụng các màng phủ ăn được như gelatin (Sun et al., 2019), chitosan (Fang et
          al., 2018; Licciardello et al., 2018), alginate (Lu et al., 2010) kết hợp với các
          hợp chất có hoạt tính sinh học như polyphenol, ferulic acid, gallic acid hay
          dịch chiết trực tiếp từ các phụ phẩm thực vật như dịch chiết vỏ lựu (Fang et
          al., 2018; Licciardello et al., 2018). Đây chắc chắn là hướng nghiên cứu tích
          cực, có tiềm năng để ứng dụng trong việc duy trì phẩm chất tôm cá sau thu
          hoạch, phục vụ cho các thị trường cao cấp ngay trong chuỗi tiêu thụ nội địa.

               (3) Các sản phẩm chế biến từ tôm và cá nước ngọt

               Việc phát triển các sản phẩm chế biến từ thủy sản rất được chú trọng và
          ngày càng phát triển phổ biến, tạo thị trường phát triển sản phẩm có giá trị
          cao cho nguyên liệu thủy sản. Oliveira et al. (2017) đề nghị sử dụng kỹ thuật
          áp suất cao trong chế biến và duy trì chất lượng thịt cá, thay cho các phương
          pháp xử lý nhiệt thông thường.  Áp suất cao là một công nghệ chế biến không
          nhiệt có khả năng làm bất hoạt các tế bào sinh dưỡng của các vi sinh vật gây
          bệnh và hư hỏng, điều chỉnh hoạt động của enzyme, giảm tổn thất các hợp
          chất mong muốn, do đó bảo tồn độ tươi và giá trị dinh dưỡng của thực phẩm



                                                                                277
   283   284   285   286   287   288   289   290   291   292   293