Page 54 - Toan canh nguon nhan luc DBSCL va vai tro cua truong DHCT
P. 54

sách, biện pháp quan trọng phát triển giáo dục, đào tạo, dạy nghề và phát
          triển nguồn nhân lực.

               Thực tế cho thấy việc quản lý Nhà nước về nguồn nhân lực ở nước ta
          ngày càng chặt chẽ, đồng thời có sự tăng cường tích cực gắn kết giữa Nhà
          nước, xã hội và giáo dục - đào tạo. Nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo toàn
          diện, đầy đủ và đồng bộ 03 mặt nhiệm vụ đào tạo, sử dụng, việc làm trên cơ
          sở đường lối của Đảng. Trong xã hội, việc làm có thể coi như tồn tại chủ yếu
          ở 03 dạng tổ chức là các doanh nghiệp, các cơ sở sự nghiệp, văn hóa công lập
          và ngoài công lập, các cơ quan nhà nước. Nhà nước xác lập mối quan hệ giữa
          việc làm – sử dụng – đào tạo theo 03 loại hình tổ chức lao động trên, mô
          phỏng tam giác phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP – WB Report, 1993) về
          quan hệ chức năng giữa nhà nước, xã hội và giáo dục – đào tạo.

























                     Hình 1.1.  Mối quan hệ chức năng giữa nhà nước - xã hội
                        và giáo dục - đào tạo trong quản lý nguồn nhân lực

               Trên cơ sở chủ trương chung, các bộ, ngành, địa phương cũng xây dựng,
          ban hành, tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực; thực
          hiện nhiều giải pháp, chính sách nhằm thu hút, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng
          và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, bước đầu đạt được kết quả quan
          trọng. Nhờ vậy, nguồn nhân lực của nước ta được tăng cường cả về số lượng
          và chất lượng. Theo Tổng cục Thống kê (2021) và văn kiện Đại hội đại biểu
          toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021), lực lượng lao động của nước ta đã
          tăng từ 50,4 triệu người vào năm 2010 lên 56,2 triệu người năm 2020. Tỷ lệ
          lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên khoảng 65% năm 2020, trong


          40
   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59