Page 21 - Toan canh nguon nhan luc DBSCL va vai tro cua truong DHCT
P. 21

cho rằng nguồn nhân lực là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng
          lao động, với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
          Khi nghiên cứu về con người trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
          Theo Hạc (2001) cho rằng “nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động
          được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao
          động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói
          chung) bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao
          động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

               Theo Tổng Cục Thống kê, nguồn nhân lực gồm những người đủ 15 tuổi
          trở lên có việc làm (lao động đang làm việc) và những người trong độ tuổi lao
          động có khả năng lao động nhưng đang ở trong các tình trạng: đang thất
          nghiệp; đang đi học; đang làm nội trợ trong gia đình mình; không có nhu cầu
          làm việc; những người thuộc tình trạng khác chưa tham gia lao động. Cách
          tiếp cận này hiện được dùng trong thống kê thị trường lao động và không tính
          những người tham gia lực lượng vũ trang, mặc dù họ là những người trong
          độ tuổi lao động và có khả năng lao động.

               Cách hiểu thứ tư, theo Hải (2016) nguồn nhân lực là bộ phận dân cư
          trong độ tuổi lao động, tham gia, hoạt động trong nền sản xuất xã hội, tức là
          có lao động, có sử dụng thể lực, tâm lực và trí lực vào quá trình lao động sản
          xuất trực tiếp. Nói cách khác, đó là bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động,
          đang tham gia lao động, chứ không phải là toàn bộ dân cư có khả năng lao
          động. Đó là lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động, được huy động vào quá
          trình lao động, chứ không phải là bộ phận dân cư có thể được huy động vào
          quá trình lao động sản xuất, càng không phải là toàn bộ dân cư, những con
          người đang sống nói chung trong một giai đoạn xác định.

               Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực đồng nghĩa với lực lượng lao
          động xã hội trong độ tuổi lao động theo luật định đang tham gia lao động, sản
          xuất, tức với số người lao động, nhưng không thuần túy về số lượng mà cả về
          chất lượng của lực lượng lao động này. Với quan niệm này, nguồn nhân lực
          đồng nghĩa với nhân lực đang lao động.

               Cách hiểu thứ năm, cụ thể hóa các cách tiếp cận trên nhưng không ở
          phạm vi quốc gia, địa phương mà ở phạm vi tổ chức, doanh nghiệp, công ty,
          đơn vị sự nghiệp,… Nguồn nhân lực là tập hợp những người lao động với
          năng lực, tiềm năng phát triển, kinh nghiệm khác nhau và được sắp xếp, đảm
          bảo những vị trí khác nhau theo một cơ cấu tổ chức nhất định, liên kết với
          nhau  theo  những  mục  tiêu  chung,  chiến  lược  chung.  Theo  Henry  (2010)



                                                                                  7
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26