Page 189 - Toan canh nguon nhan luc DBSCL va vai tro cua truong DHCT
P. 189

Từ số lượng người học đại học phân theo địa phương (Bảng 6.3) cho
          thấy, tỷ lệ người học có hộ khẩu ĐBSCL chỉ chiếm xấp xỉ 8,5% (dao động từ
          8,35 đến 8,87%, tùy thuộc mỗi năm). Trong khi đó, theo kết quả điều tra của
          Tổng cục Thống kê (2020), tổng dân số của vùng chiếm khoảng 18% dân số
          cả nước và là vùng đang có dân số vàng cao (12,2 triệu người, gấp đôi dân số
          của đất nước Singapore và hơn gấp rưỡi dân số Hong Kong).


               Bảng 6.3. Số sinh viên các trường đại học phân theo địa phương
                           2015        2016        2017        2018        2019
           CẢ NƯỚC        1.753.174   1.767.879   1.707.025   1.526.111   1.672.881
           ĐBSCL            151.846     156.949     149.744     127.379     142.695
           Long An            2.427       2.161       2.117       2.647       2.388
           Tiền Giang         4.003       4.013       4.032       3.144       3.676
           Trà Vinh          29.266      29.135      25.527      15.575       17.29
           Vĩnh Long          7.996       9.336      10.663      10.215      12.872
           Đồng Tháp         11.823       12.05       8.909       7.946       9.052
           An Giang          10.069       9.117       8.348       8.802       9.069
           Kiên Giang          853        1.996       3.297       4.178       4.428
           Cần Thơ           78.341      82.134      80.157      68.354      78.063
           Hậu Giang          4.321       4.616       4.437       4.369       4.255
           Bạc Liêu           2.747       2.391       2.257       2.149       1.602

               (Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2020)
               6.2.1.2  Bậc giáo dục nghề nghiệp

               Ðối với giáo dục trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, năng lực đào tạo
          còn hạn chế. Mặc dù, ÐBSCL là vùng có thế mạnh về nông nghiệp và ngư
          nghiệp nhưng số ngành nghề đào tạo về kỹ thuật nông nghiệp, chế biến chưa
          được chú trọng. Quy mô trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) vẫn chưa đáp ứng
          yêu cầu thực tế và yêu cầu phân luồng học sinh sau trung học cơ sở (THCS)
          và trung học phổ thông (THPT). Xu hướng nhiều tỉnh đồng loạt nâng các
          trường trung cấp lên cao đẳng, tổ chức dạy một số chuyên ngành trung cấp
          trong các trường đại học đang nảy sinh một số bất hợp lý (đội ngũ giảng viên
          thiếu ổn định, chất lượng không đáp ứng; khó khăn về quản lý chuyên môn)
          và phát triển mạng lưới trường (cơ sở vật chất, đất xây dựng không bảo đảm;
          quy hoạch mạng lưới trường chưa thể hiện được tính vùng,...).









                                                                                175
   184   185   186   187   188   189   190   191   192   193   194