Page 82 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 82
18/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2020;
Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 -
2020; Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 08 tháng 1 năm 2014 đã ghi rõ kế
hoạch bảo vệ và phát triển bền vững 30.000 ha hệ sinh thái rừng ngập mặn tự
nhiên; hệ sinh thái các rạn san hô, thảm cỏ biển tại Phú Quốc; các hệ sinh thái
rừng ngập mặn và hệ sinh thái rừng tràm tại Tràm Chim, U Minh, Trà Sư.
Quyết định 120/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2015 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt “Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến
đổi khí hậu giai đoạn 2014 - 2020”. Quyết định số 174/QĐ-TTg ngày 03 tháng
02 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập Quy hoạch
bảo tồn đa dạng sinh học thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Việc
phục hồi và phát triển rừng là nhiệm vụ trọng tâm; kết hợp hài hòa giữa bảo
vệ rừng tràm, rừng ngập mặn với phát triển các sinh kế từ rừng, đặc biệt là
thủy sản sinh thái dưới tán rừng và du lịch sinh thái; phát triển các mô hình
quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Nguyên nhân của sự suy thoái và mất diện tích rừng có thể kể đến là do
quản lý kém hiệu quả của địa phương và các công ty lâm nghiệp, một số chính
sách trong quản lý bảo vệ rừng, giao khoán rừng còn chồng chéo, không còn
phù hợp ở địa phương nhưng chưa được điều chỉnh. Công tác thực thi pháp
luật lâm nghiệp còn hạn chế dù nhận được sự quan tâm của các cấp chính
quyền và cả lực lượng kiểm lâm quan tâm. Nhận thức của người dân và cộng
đồng địa phương còn hạn chế. Một số bất cập trong tổ chức bộ máy quản lý
lâm nghiệp, trách nhiệm giữa các bên có liên quan chưa rõ ràng. Chính sách
thu hút các thành phần kinh tế vào đầu tư, bảo vệ và phát triển rừng còn chưa
hiệu quả.
Do vậy, việc bảo vệ và quản lý rừng ngập mặn mang tính hệ thống có
mức độ ưu tiên cao nhằm duy trì và phát triển nền kinh tế toàn vùng. Quản lý
tổng hợp và hệ thống vùng ven biển sẽ là động lực tạo ra các cơ hội bảo tồn
đa dạng sinh học, bảo vệ bờ biển và hỗ trợ sinh kế cho người dân ở vùng ven
biển. Vành đai rừng ngập mặn cần phải được phục hồi tại các điểm dễ sạt lở
dọc bờ biển Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Tiền
Giangbằng việc xây dựng các công trình chắn sóng, tái trồng rừng và áp dụng
các thực tiễn quản lý bền vững, hoàn thành việc lập quy hoạch kể hoạch bảo
vệ và phát triển rừng. Thực hiện tiếp tục các dự án về bảo vệ và phát triển
rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2014 - 2020 (Quyết
71