Page 279 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 279
Chương 11
CHẾ BIẾN VÀ BẢO QUẢN NÔNG THỦY SẢN
1
Nguyễn Văn Mười , Trần Thanh Trúc 1,2*
1 Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm, Trường Đại học Cần Thơ
2 Khoa Sau Đại học, Trường Đại học Cần Thơ
(*Email: tttruc@ctu.edu.vn)
M
ục đích của nghiên cứu là nêu được một bức tranh tổng thể
về thực trạng sơ chế, chế biến và bảo quản nông thủy sản
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó cho thấy các kết
quả đã đạt được trong thời gian gần đây cũng như những mặt hạn chế trong
hoạt động chế biến và bảo quản nông thủy sản sau thu hoạch. Bên cạnh đó,
nghiên cứu giúp tìm ra các nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại trong
chế biến, từ đó định hướng phát triển và đa dạng hóa sản phẩm có giá trị gia
tăng bằng việc áp dụng các công nghệ tiên tiến cũng như mô hình sản xuất
hiệu quả.
11.1 SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC CHẾ BIẾN NÔNG SẢN VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện tích tự nhiên 39,7 nghìn
2
km chiếm 12,25 % diện tích cả nước, có dân số khoảng 18 triệu người, chiếm
19% dân số cả nước. Đây là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, trái cây, nuôi
trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông - lâm
- thủy sản của cả nước. ĐBSCL đã đóng góp tỷ lệ lớn vào GDP nông nghiệp
cả nước: chiếm 31,37% GDP ngành nông nghiệp, đóng góp tới 50% sản lượng
lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% về trái cây; 95% lượng gạo
xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu (Báo cáo kinh tế thường niên
ĐBSCL năm 2020).
Như vậy, phát triển sản phẩm từ nông thủy sản là thế mạnh của Việt
Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng. Trong đó, nếu tôm sú và tôm thẻ chân
trắng là nguồn thủy sản xuất khẩu lớn nhất Việt Nam, thì các loại quả có múi
là nguồn lợi chính của nhà vườn ĐBSCL. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên
nhóm đối tượng này chỉ chú trọng đến khâu nuôi, trồng và điều trị bệnh trong
quá trình canh tác.
268