Page 262 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 262
nhiều phần mà mỗi phần sẽ phát triển thành một cơ thể mới. Phần tách ra có
thể là một phần cơ thể, một cơ quan, một nhóm tế bào, thậm chí chỉ là một
tế bào. Hiện tại, đã phát triển một số kỹ thuật nhằm tạo dòng vô tính ở vật
nuôi: chia tách phôi (embryo splitting); chuyển ghép nhân (nuclear
transplantation); chuyển gen (gene transfer).
Chuyển gen (gene transfer): có thể hiểu chuyển gen là việc chuyển
những gen đã được tái tổ hợp in vitro vào cơ thể khác (ở đây được hiểu là cá
thể vật nuôi). Đã có nhiều kỹ thuật được xây dựng để cho phép chuyển gen
ở động vật, trong đó kỹ thuật vi tiêm ADN vào tiền nhân của hợp tử đã được
áp dụng ở nhiều loài vật nuôi như cá, thỏ, dê, cừu, heo và bò. Quy trình kỹ
thuật vi tiêm ADN ở động vật có vú bao gồm các bước sau: tái tổ hợp và
tách dòng gen quan tâm; chuẩn bị vật cho; phát hiện các hợp tử; làm trông
thấy được tiền nhân; chuẩn bị dung dịch ADN để tiêm; vi tiêm dung dịch
ADN vào tiền nhân của hợp tử; chuyển hợp tử đã được tiêm vào tử cung của
vật nhận đã được gây động dục đồng pha; kiểm tra con vật mới sinh ra xem
có gen lạ xen vào hay không.
Các động vật chuyển gen được nuôi và giao phối với nhau. Đời con
của những cặp giao phối này được kiểm tra để xem có gen được chuyển hay
không. Trong số những con này chú ý chọn ra những con đồng hợp về gen
được chuyển. Những khả năng ứng dụng chuyển gen như tăng sức đề kháng
với bệnh, cải tiến chất lượng sản phẩm, sản xuất các protein làm dược phẩm
trong sữa.
Sử dụng các locus marker: trong thời gian qua, rất nhiều kỹ thuật
trong phòng thí nghiệm đã phát triển để kiểm tra hiện tượng đa hình trong
hệ gen của người và động vật. Những kỹ thuật này bao gồm việc sử dụng
các con lai tế bào giữa các loài (Gusella et al., 1980), lai in situ (Neel et al.,
1982), các kỹ thuật miễn dịch sử dụng kháng thể đơn dòng (Kennett et al.,
1980), điện di 2 chiều trên gel (Goldman et al., 1983), RFLP (Restriction
Fragment Length Polymorphisms – đa hình chiều dài các đoạn cắt giới hạn)
(Betstein et al., 1980), các vị trí vùng dễ biến đổi ADN tiểu vệ tinh (Jeffreys
et al., 1985), các mẫu dò oligonucleotit (Kazazian, 1985)… Những kỹ thuật
trên hứa hẹn cung cấp một số lượng lớn marker di truyền đa hình để kiểm
tra dòng dõi, xác nhận sự tồn tại của các giống đã được cải tạo và chọn lọc
qua marker.
251