Page 235 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 235
sản phẩm tôm sú được chế biến và xuất khẩu là: tôm nguyên con đông lạnh
còn đầu, còn vỏ (Ký hiệu là HOSO: Head on shell-on shrimp); tôm bỏ đầu,
còn vỏ (HLSO: Headless shell-on shrimp); và tôm bốc vỏ để lại đốt đuôi và
đuôi (PTO: Peer Tail on). Tôm của Việt Nam được xuất khẩu sang 5 thị
trường chính, bao gồm: Mỹ (chiếm 26,9% kim ngạch xuất khẩu); Nhóm thị
trường trong Hiệp định CPTPP (Nhật Bản, Australia, Canada, Singapore)
chiếm 25,5%; EU (Hà Lan, Đức, Bỉ, Pháp) chiếm 15,8%; Trung Quốc và
Hồng Kông chiếm 10,6%; và Hàn Quốc chiếm 9,6% (VASEP, 2022).
Những điểm nghẽn chính của chuỗi giá trị
Thông qua phân tích kinh tế chuỗi của cả hai CGT trên cho thấy, kênh
phân phối càng ngắn càng tốt (cụ thể là kênh phân phối từ NN đến các
DNCBXK), tuy nhiên trong thực tế do năng lực liên kết giữa NN và
DNCBXK còn rất hạn chế nên tỷ trọng sản phẩm tôm được tiêu thụ qua kênh
này chưa cao, đặc biệt đối với CGT của TTCT. Thêm vào đó, sản phẩm tôm
xuất khẩu được chế biến càng sâu sẽ mang lại lợi nhuận càng cao, cụ thể là
sản phẩm tôm chế biến PTO. Theo kết quả nghiên cứu và đánh giá của nhiều
tác giả cho rằng, trong quá trình hoạt động, các tác nhân tham gia trong hai
CGT trên bên cạnh có được những thuận lợi và cơ hội, họ cũng phải đối mặt
với những thách thức và hạn chế nhất định, và do vậy đã tạo ra những điểm
nghẽn hoặc lỗ hổng làm kìm hãm khả năng tạo ra lợi nhuận cho toàn chuỗi
(Son và ctv., 2020a). Theo nghiên cứu gần đây của Trang (2019), Son và ctv.
(2020b), Lam và Anh (2020), có ba điểm nghẽn chính đối với ngành hàng
tôm biển ở ĐBSCL, bao gồm: i) Nguồn cung con giống tôm trong vùng thiếu
và không ổn định cả về số lượng và chất lượng; ii) Liên kết dọc giữa các tác
nhân tham gia trong CGT cũng như liên kết ngang giữa NN và giữa các
DNCBXK với nhau chưa chặt chẽ và chưa hiệu quả; và iii) Đầu tư nghiên
cứu phát triển sản phẩm giá trị gia tăng và xây dựng thương hiệu tôm chung
của vùng chưa được quan tâm đúng mức. Ba điểm nghẽn này cũng được xem
là những nguyên nhân quan trọng làm gảm năng lực cạnh tranh của ngành.
Giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị
Dựa trên cơ sở kết hợp những cơ hội và thách thức của ngành hàng tôm
đã được đề cập cũng như từ ba điểm nghẽn được nhận diện ở trên, năm giải
pháp sau đây cần xem xét để nâng cấp CGT ngành hàng tôm ở ĐBSCL.
i) Tăng cường đầu tư các cơ sở/doanh nghiệp sản xuất con giống, có
chất lượng cao để cung cấp cho thị trường trong vùng. Giải pháp này được
đề xuất dựa trên cơ sở như: tận dụng cơ hội ngành hàng tôm được hỗ trợ của
Nhà nước, Bộ ngành có liên quan, Chính quyền địa phương và VASEP; Nhà
224