Page 207 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 207
10000 1640 1800
9000 1467 1560 1525 1600
8000 1400
1203 1188 1244
7000 1120 1106 1105 1200
6000 1000
Diện tích 5000 800 Sản lượng
4000
3000 600
2000 400
1000 200
0 0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021
Diện tích (ha) Sản lượng (x 1.000 tấn)
Hình 9.5. Diện tích và sản lượng cá tra ĐBSCL
(Nguồn: Hiền, 2021; VASEP, 2022)
Đối với nuôi thương phẩm cá tra, nghề nuôi bắt đầu khá sớm từ những
năm 1940–1950 mà chủ yếu ở hai tỉnh Đồng Tháp và An Giang. Nghề nuôi
cá basa trong bè trên sông ở tỉnh An Giang và Đồng Tháp vào những năm
1960 (Phuong, 1998) đã ảnh hưởng và tạo tiền đề ban đầu cho nghề nuôi cá
tra thương phẩm trong bè và ao đất sau này. Theo Phương và ctv. (2016), mốc
phát triển của nghề nuôi cá tra thương phẩm trong ao xuất phát từ các thử
nghiệm nuôi của người dân ở thành phố Cần Thơ từ những năm 1981-1982.
2
Đó là nuôi thương phẩm trong ao mật độ thấp 10-12 con/m (giống tự nhiên)
và cho ăn bằng thức ăn tự chế, đạt năng suất hơn 100 tấn/ha trong 6 tháng
nuôi, sau đó người nuôi tăng dần mật độ nuôi và thay nước, nâng năng suất
lên 140-230 tấn/ha/vụ. Tiếp theo là sự thành công trong công tác sản xuất
giống nhân tạo đã thúc đẩy thêm các nghiên cứu về nuôi thương phẩm trong
bè, ao,... sử dụng thức ăn tự chế, thức ăn viên công nghiệp hay kết hợp hai
loại thức ăn, dẫn đến năng suất nuôi tăng rõ rệt, có thể đến 850 tấn/ha/vụ
(trung bình hơn 400 tấn/ha/vụ) tuỳ mật độ thả (Phương và ctv., 2016). Số liệu
thống kê năm 2020 cho thấy sản lượng cá tra nuôi của tỉnh Đồng Tháp chiếm
32,3%, tỉnh An Giang 27,6%, tỉnh Bến Tre 12,8% và thành phố Cần Thơ
10,9%. Những địa phương này đang được xem là vùng sản xuất chính của
ngành hàng cá tra ở Việt Nam (Hiền, 2021). Giá trị xuất khẩu khẩu cá tra giai
đoạn 2015-2021 đạt cao nhất là 2,26 tỷ USD (năm 2018) và thấp nhất là 1,47
tỷ USD năm (2017). Thị trường xuất khẩu có xu hướng tăng từ 129 nước vào
năm 2018 và tăng lên 138 nước vào năm 2021 (VASEP, 2022).
196