Page 212 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 212
Nhìn chung, công nghệ sản xuất giống cá tra đang được cải tiến rất
nhiều về kỹ thuật để tạo giống chất lượng cao, chọn lọc cải thiện tăng trưởng,
kháng bệnh đặc thù và hiện cũng đang chọn lọc tạo dòng cá chịu mặn thích
ứng với biến đổi khí hậu. Vì vậy, chất lượng giống sẽ được tiếp tục cải thiện
để hỗ trợ phát triển bền vững ngành hàng cá tra trong tương lai.
c) Phát triển công nghệ nuôi
Kỹ thuật nuôi cá tra đã có những cải tiến đang kể trong quá trình phát
triển từ khi bắt đầu vào những năm 1981-1982 và nhất là từ năm 2000 khi
giống cá được sản xuất nhân tạo thành công với số lượng lớn đáp ứng cho
nhu cầu nuôi thương phẩm (Phương và ctv., 2016). Sự thay đổi quan trọng
của nghề nuôi cá tra đó là sự chuyển đổi mô hình nuôi từ nuôi bè và nuôi đăng
quầng trên sông sang nuôi ao từ năm 2004. Chính vào năm đó, diện tích nuôi
ao của vùng ĐBSCL tăng lên đến hơn 5.500 ha với sản lượng hơn 1,1 triệu
tấn và phát triển nhảy vọt (phát triển nóng) xảy ra vào năm 2008, theo đó diện
tích nuôi đạt 6.012 ha, sản lượng khoảng 1,2 triệu tấn (Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn [NN&PTNT], 2012a). Mặc dù diện tích nuôi không tăng
nhanh nhưng kỹ thuật nuôi đã có nhiều cải tiến nên năng suất và sản lượng
tăng. Kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm đã có sự cải tiến và phát triển mới về
nhiều khâu như gia tăng mật độ nuôi, chuyển đổi từ sử dụng thức ăn tự chế
chất lượng thấp sang thức ăn viên công nghiệp có chất lượng tốt và ổn định
hơn, cải tiến phương pháp cho ăn nâng hiệu quả sử dụng thức ăn (cho ăn gián
đoạn), cải thiện quản lý chất lượng môi trường ao nuôi (sục khí, thay nước),
quản lý dịch bệnh,... Những cải tiến kỹ thuật này đã góp phần làm tăng năng
suất nuôi rất đáng kể (Phương và ctv., 2016).
Yếu tố kỹ thuật nuôi thay đổi có tính quyết định nhiều đến năng suất
của nghề nuôi đó là sự chuyển đổi từ sử dụng thức ăn tự chế hoàn toàn, sang
tự chế kết hợp với thức ăn viên và đến hoàn toàn thức ăn chế biến như hiện
nay. Nếu giai đoạn đầu của sự phát triển (trước năm 2000), hầu hết sử dụng
thức ăn tự chế, thì sang giai đoạn 2000-2005 đã có hơn 50% người nuôi sử
dụng thức ăn viên công nghiệp hoàn toàn và số còn lại là sử dụng kết hợp; và
từ năm 2010, gần như tất cả người nuôi đã chuyển sang sử dụng hoàn toàn
thức ăn viên công nghiệp (Nhì, 2005; Hùng & Huy, 2006; Bộ NN&PTNT,
2012). Cùng với đó là sự hình thành và phát triển của nhiều nhà máy sản xuất
thức ăn viên công nghiệp cho cá tra (Nhì, 2005; Phuong, 2013; Bộ
NN&PTNT, 2012b). Cách sử dụng thức ăn viên công nghiệp hiện cũng đã
được cải tiến trong quá trình phát triển, đặc biệt là sử dụng máy cho ăn tự
động, cho ăn theo nhu cầu của cá (Phương và ctv., 2016) và cải tiến phương
201