Page 205 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 205
10000 60
8771 8847
9000
8349 8514 50
8389
7825
8000 6693 6569 40
Giá trị xuất khẩu (tiệu US$) 6000 3763 4255 6112 30 Tăng trưởng (%)
7036
7000
20
5000
4000
10
3000
2000 1816 2200 2733 0
1000 621 782 974 -10
0 -20
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021
Hình 9.3. Giá trị xuất khẩu của ngành thủy sản giai đoạn 1995-2021
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2022)
9.4 CÁC NGÀNH HÀNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CHÍNH
9.4.1 Ngành hàng cá tra
a) Hình thành và phát triển nuôi cá tra
ĐBSCL hiện có 2 loài cá da trơn có giá trị kinh tế cao và đã được nuôi
quy mô thương mại là cá basa được nuôi chủ yếu trong bè giai đoạn trước
năm 2000 và cá tra được nuôi trong bè, đăng quầng và ao (Thường và ctv.,
2016). Cá tra hiện nay là loài cá nuôi quan trọng nhất của Việt Nam, đặc biệt
là ở ĐBSCL.
Sự phát triển của nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL có cột mốc đầu tiên là từ
nghề vớt giống và nuôi cá trên sông Cửu Long, nhất là vùng thượng nguồn
thuộc hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp từ những năm 1940 và trải qua nhiều
giai đoạn phát triển khác nhau. Tuy nhiên, sau năm 1995, sản lượng cá giống
vớt tự nhiên có xu hướng giảm cùng với nhận thức về ảnh hưởng của nghề
vớt cá tra bột/giống, nên nghề vớt cá tra bột dần giảm và bị dừng từ năm 2000.
Đó cũng là lúc sản xuất giống cá tra nhân tạo đã thành công cung cấp cho
nghề nuôi (Phương và ctv., 2016). Nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo cá
tra được khởi đầu từ năm 1978 (Xuan, 1994) và sau đó nhiều trường, viện và
cả doanh nghiệp cùng tham gia. Giai đoạn 1995–1998 có thể nói là mốc quan
trọng trong thành công sản xuất giống nhân tạo cá tra. Đó là do Khoa Thủy
194