Page 158 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 158
vững, giảm sử dụng vật tư nông nghiệp và chi phí sản xuất. Phát triển cụm
công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ gắn với vùng nguyên liệu tập trung.
Lúa gạo: Đến năm 2030, diện tích đất lúa còn 1,6 triệu ha (giảm
300.000 ha, chuyển sang đất vườn cây ăn trái và thủy sản nước lợ/mặn), diện
tích gieo trồng còn 3,1 triệu ha (giảm 1,0 triệu ha) và sản lượng còn 17,3 triệu
tấn (giảm 6,3 triệu tấn). Tăng sử dụng giống xác nhận, giống chất lượng cao,
có khả năng chống chịu hạn và mặn, canh tác giống đáp ứng nhu cầu thị
trường, ứng dụng cơ giới hóa và khoa học - kỹ thuật để giảm sử dụng vật tư
nông nghiệp và chi phí sản xuất. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, tập trung vào khâu chế biến sâu chính phẩm và phụ phẩm; phát triển
cụm công nghiệp chế biến và dịch vụ hỗ trợ trực tiếp gắn vùng nguyên liệu,
hạ tầng sau thu hoạch (kho chứa, sơ chế, bảo quản, dịch vụ hỗ trợ cho vùng
sản xuất). Xây dựng đề án sản xuất bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa
chất lượng cao vùng nhằm nâng cao giá trị, thu nhập của người dân, bảo đảm
an ninh lương thực và phục vụ chế biến, xuất khẩu.
7.4.2.3 Ngành hàng tiềm năng
Ngành hàng tiềm năng bao gồm chăn nuôi, lâm sản, dịch vụ du lịch sinh
thái và sản phẩm chủ lực địa phương. Phát triển chăn nuôi phù hợp điều kiện
sinh thái và biến đổi khí hậu ở từng tiểu vùng sinh thái nông nghiệp. Chăn
nuôi theo chuỗi khép kín, đảm bảo muôi trường, an toàn thực phẩm và xa khu
dân cư. Kết hợp rừng với chăn nuôi, thủy sản đề hình thành hệ thống canh tác
vừa tạo ra thực phẩm vừa dịch vụ du lịch được quản lý bởi cộng đồng. Sản
phẩm tiềm năng là ngành hàng chủ lực, đặc trưng địa phương kết hợp chương
trình OCOP để tăng dần hàm lượng chế biến và phát triển thị trường (như sen,
khóm, cá thát lát, khoai mỡ).
7.4.3 Cơ hội và thách thức của thị trường nông sản ngành hàng
chủ lực
7.4.3.1 Cơ hội
Xu thế phát triển thương mại – dịch vụ, bán lẻ hàng tiêu dùng nói chung
và nông sản nói riêng trong nước và vùng ĐBSCL do thu nhập và nhu cầu
tiêu dùng của cư dân được cải thiện. Cơ hội này khuyến khích sản xuất và chế
biến nông sản của vùng đang dạng, chất lượng cao và an toàn hơn;
Thị trường Trung Quốc, ASEAN và EU là đối tác quan trọng về nhập
khẩu nông sản của vùng. Kinh tế Trung Quốc đang dần dịch chuyển sang kinh
tế tiêu dùng, giúp phát triển trị trường hàng hóa của vùng ĐBSCL;
147