Page 136 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 136
Giữa hai thời điểm 2010 và 2017, sự thay đổi chủ yếu là chuyển dịch
qua lại giữa lúa 2 vụ và 3 vụ ở tiểu vùng lũ và giao thoa giữa tiểu vùng giữa
và ven biển, do phát triển hạ tầng thủy lợi, công trình kiểm soát lũ và nơi canh
tác lúa 3 vụ không hiệu quả. Sự thay đổi đáng kể khác là chuyển đổi đất lúa
sang vườn cây ăn trái ở tiểu vùng giữa. Bên cạnh đó, hệ thống canh tác lúa –
tôm và nuôi thủy sản chuyên canh cũng có sự chuyển dịch qua lại ở tiểu vùng
ven biển (Hình 7.2b). Kết quả đó cho thấy thực tế chuyển dịch sử dụng đất
nông nghiệp trước đó đã diễn ra đúng với định hướng chiến lược của Chính
phủ trong chuyển dịch sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL từ năm 2017.
Phân tích chi tiết hơn về mức độ thay đổi diện tích canh tác của các kiểu
sử dụng đất ở mỗi thời điểm tương ứng với tiểu vùng thủy văn (Hình 7.3).
Ở tiểu vùng lũ, trong giai đoạn 2000 – 2010 và 2010 – 2017, sự thay đổi chủ
yếu thâm canh lúa, chuyển canh tác lúa mùa 1 vụ sang canh tác 2 vụ và từ 2
vụ chuyển sang 3 vụ do phát triển hệ thống thủy lợi và công trình kiểm soát
lũ. Diện tích vườn cây ăn trái tăng lên trong giai đoạn 2010 – 2017 nhưng
không đáng kể.
Ở tiểu vùng giữa, xu hướng xảy ra tương tự như tiểu vùng lũ, phát triển
thâm canh lúa 3 vụ, nhưng diện tích vườn tăng đáng kể. Bên cạnh đó, canh
tác rau màu (bao gồm chuyên canh và luân canh với lúa), nuôi thủy sản luân
canh với lúa và chuyên canh, và khóm cũng tăng nhẹ. Diện tích mía giảm do
giá mía đường giảm.
Sự thay đổi đáng kể nhất ở tiểu vùng ven là chuyển dịch canh tác lúa
sang thủy sản. Diện tích canh tác lúa mùa được thay thế bằng lúa cao sản
trung mùa (ngắn ngày hơn) trong cơ cấu lúa – tôm luân canh giảm rủi ro hạn
mặn. Nuôi tôm trong cơ cấu luân canh lúa – tôm hoặc tôm mở rộng đáng kể.
Diện tích rau màu và cây ăn trái có phát triển nhưng nhỏ.
Trong giai đoạn 2010 – 2019, cây ăn trái và thủy sản, đặc biệt tôm, có
tốc độ tăng trưởng cao, trong khi đó lúa dường như không thay đổi và có
khuynh hướng giảm ở tiểu vùng giữa và ven biển (Hình 7.4). Diện tích vườn
cây ăn trái tăng ở tiểu vùng lũ và ven biển. Diện tích nuôi cá ở tiểu vùng lũ
và ven biển thu hẹp, có lẽ do giảm diện tích nuôi cá tra và chuyển sang nuôi
tôm nước lợ và mặn ở tiểu vùng ven biển. Ở hai tiểu vùng này, diện tích nuôi
có khuynh hướng giảm nhưng sản lượng thì tăng, phản ánh mức độ nuôi thâm
canh tăng lên. Tăng trưởng nhanh về diện tích và sản lượng nuôi tôm ở cả ba
tiểu vùng, đặc biệt tăng nhanh ở tiểu vùng lũ và ven biển. Phân tích sự thay
đổi các hình thức nuôi ở hai tỉnh Bến Tre và Sóc Trăng giai đoạn 2010 – 2019
125