Hội thảo “Làm gì để hình thành được đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp?”
Tạp chí Kinh tế Sài Gòn, Bộ NN&PTNT và Trường Đại học Cần Thơ đồng tổ chức,
tại Trường ĐHCT, ngày 23/9/2022
Con đường hướng đến phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp
Nguyễn Duy Cần[1], Trần Ngọc Hải[2], Hà Thanh Toàn[3]
Mới đây tại Diễn đàn Nông dân Quốc gia lần thứ VII do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam chủ trì, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đã đề cập đến khái niệm 'Người nông dân chuyên nghiệp'; Tạp chí Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 14-7-2022, đăng bài viết “Làm nông hiện đại thì nông dân phải có tri thức” của Bộ trưởng, đây là các vấn đề có tính chất căn bản và chiến lược cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam và cũng là vấn đề được nêu ra trong Nghị quyết của BCH Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Nhân Hội thảo "Làm gì để hình thành được đội ngũ làm nông chuyên nghiệp?" do Bộ NN-PTNT phối hợp với Tạp chí Kinh tế Sài Gòn (KTSG) và Trường ĐHCT tổ chức, chúng tôi xin được chia sẻ những ý kiến ở góc độ của người làm công tác đào tạo và NCKH trong lĩnh vực nông nghiệp. Bài tham luận cũng dựa trên các ý kiến được tham khảo từ các nhà khoa học tâm quyết với sự phát triển bền vững nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ mới.û
1- Trường Đại học Cần Thơ đồng hành trong phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp
Trường Đại học Cần Thơ (ĐHCT) từ lâu là một trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực và là trường đại học trọng điểm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Với sứ mệnh và lịch sử truyền thống, Trường ĐHCT đã góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng ĐBSCL, đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.
Là cơ sở đào tạo đại học và sau đại học trọng điểm của Nhà nước ở vùng ĐBSCL, với thế mạnh về lĩnh vực nông nghiệp, Trường ĐHCT đã đào tạo nhiều thế hệ kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần tích cực cho sự phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao cho vùng và cả nước, trong đó có sự đóng góp vào xu thế mới tri thức hóa nông dân – phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp[4].
Những năm gần đây, theo xu thế chung của xã hội, giới trẻ không còn mặn mà với ngành nghề nông nghiệp, số lượng tuyển sinh vào các ngành nông nghiệp rất ít, một số ngành lĩnh vực nông nghiệp không có người học, buộc phải tạm dừng tuyển sinh. Mặc dù vậy, Trường ĐHCT với trách nhiệm xã hội cao, ĐHCT vẫn duy trì và ưu tiên tuyển sinh đào tạo các ngành nông nghiệp trụ cột cho xã hội, hướng đến phục vụ cộng đồng và sự phát triển của nền nông nghiệp bền vững. Ngoài các ngành truyền thống về nông nghiệp, Trường ĐHCT không ngừng cải tiến, bổ sung và phát triển mới một số ngành/chuyên ngành đào tạo theo xu thế chung của nông nghiệp thế giới, ví dụ như Nông nghiệp công nghệ cao, Nông nghiệp thông minh, Kinh doanh nông nghiệp, v.v.. Riêng ở Khoa Phát triển nông thôn, đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp, những cử nhân ra trường của ngành đào tạo này có thể đáp ứng cho nhu cầu và phục vụ cho các Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Chiến lược của Chính phủ), chuyển từ 'tư duy sản xuất nông nghiệp' sang 'tư duy kinh tế nông nghiệp', sản xuất sản phẩm có giá trị cao, đa dạng theo chuỗi giá trị phù hợp với yêu cầu của thị trường [1].
Nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp là một ưu thế của Trường ĐHCT. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hội thảo, tọa đàm, huấn luyện ngắn hạn,v.v., nhà Trường đã đóng góp đáng kể và hiệu quả vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của ĐBSCL, trong đó đóng góp vào sự phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp. Nhiều chương trình, dự án trong nước và quốc tế được các nhà nghiên cứu, chuyên gia của Trường chuyển giao, truyền đạt những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới về nông nghiệp cho nông dân, những người làm nông. Điển hình như ở Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL của Trường ĐHCT đã triển khai dự án "Bảo tồn và Phát triển đa dạng sinh học cộng đồng" (CBDC) tại ĐBSCL. Qua 15 năm của dự án đã đào tạo, huấn luyện trên 20.000 nông dân về "Kỹ thuật chọn giống và sản xuất giống cộng đồng", thành lập 358 Tổ Sản xuất, hàng năm hệ thống này cung cấp trên 100.000 tấn lúa giống cấp xác nhận, đáp ứng khoảng 20-30% tổng nhu cầu về giống lúa. Đây là đội ngũ những người làm nông chuyên nghiệp, có kiến thức, kỹ năng chọn tạo giống lúa mới, góp phần đáng kể trong chiến lược “xã hội hóa công tác giống lúa” ở các tỉnh ĐBSCL.
Với trách nhiệm xã hội cao của nhà Trường, nhằm góp phần hỗ trợ các địa phương ở ĐBSCL phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn mới, Trường cũng đã ký kết hợp tác với hầu hết các UBND các tỉnh thành vùng ĐBSCL, kể cả một số UBND cấp huyện về chuyển giao khoa học công nghệ, đặc biệt trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp hiệu quả, gia tăng giá trị của sản xuất.
Những nỗ lực và đóng góp trong lĩnh vực nông nghiệp nói trên cũng có nghĩa là, Trường ĐHCT đã và đang tiếp tục đồng hành với xu thế tri thức hóa nông dân - phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp, một chiến lược đột phá trong phát triển nông nghiệp giai đoạn mới.
2- Những thách thức phía trước trong phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp
2.1-Thách thức về đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao thời đại cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0
Có thể dễ nhận thấy rằng thách thức về đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao – đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp thời đại CMCN 4.0 là rất lớn. Hiện tại rất hạn chế về số lượng người học các ngành nông nghiệp, xu hướng giới trẻ chọn nơi làm việc ở thành thị hơn là nông thôn. Xu hướng này sẽ dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao – đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp tiềm năng trong thời gian tới.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 cũng sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Đặc biệt, lao động việc làm nông thôn sẽ chịu những áp lực rất lớn. CMCN 4.0 thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp như: nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp 4.0,… làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng và giá trị sản phẩm và giảm sức lao động con người. Điều này cũng dẫn đến áp lực thiếu lao động chất lượng cao và thừa lao động phổ thông, lao động tay chân. Trong tương lai gần, lao động nông thôn có thể bị mất việc làm do sự phát triển của robot và công nghệ tự động hóa ứng dụng trong sản xuất. Lao động nông thôn sẽ dịch chuyển dần sang những ngành mới này. Điều này đòi hỏi phải có định hướng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực này và chính sách hỗ trợ phù hợp. Nhiều nước trên thế giới ngày nay đã tiến xa trong CMCN 4.0, chẳng hạng như Nhật Bản, sản xuất nông nghiệp thông minh, tự động hóa. Công nghệ đã thay thế con người, làm giảm lượng lớn nhân công lao động (Hình 1) [2].
Hình 1. Nông nghiệp thông minh ở Nhật Bản
Nguồn: Jun-Ichi Sakagami (2019).
Cuộc CMCN 4.0 sẽ mất dần những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động, bên cạnh cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới, gắn với đặc trưng của cuộc cách mạng này như: Công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, số hóa, máy tính, an ninh mạng… CMCN 4.0 là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật máy tính, tự động hóa của Việt Nam đang còn quá ít. Điều này cho thấy nhu cầu về nguồn lực lao động trong các lĩnh vực trên là rất cao. Tuy nhiên việc có kế hoạch, chiến lược để đáp ứng nhu cầu từ dịch chuyển nguồn lao động nông thôn là một thách thức lớn, vấn đề này hiện nay chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt việc đào tạo nguồn nhân lực lao động nông thôn chất lượng cao đáp ứng cho nền nông nghiệp tương lai.
2.2- Các ngành đào tạo nông nghiệp thiếu người học và giới trẻ thích việc làm ở thành thị hơn nông thôn
Trường ĐHCT là một trong những cơ sở đào tạo và đóng góp cho sự phát nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc tuyển sinh cho các ngành nông nghiệp gặp khó khăn, thiếu người học, một số ngành phải tạm dừng tuyển sinh. Không chỉ riêng ĐHCT mà hầu như các cơ sở đào tạo khác trong cả nước cũng đối mặt với khó khăn tương tự. Đây cũng là hệ lụy của một đất nước nông nghiệp vừa thoát khỏi nghèo khó. Giới trẻ ngày nay không muốn ngành nghề hay việc làm nông nghiệp. Các bậc phụ huynh cũng tác động vào do họ đã từng làm nông nghiệp theo lối truyền thống một cách vất vả nên muốn con cái họ học ngành nghề khác hơn. Nếu như không có giải pháp và chính sách phù hợp, trong tương lai gần ĐBSCL sẽ thiếu hụt nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao này. Điều này cũng đã xảy ra ở một số quốc gia lân cận như Thái Lan, Philippines trong vài thập kỷ trước, khiến một số trường đại học phải đóng cửa một số ngành nông nghiệp, buộc Chính phủ và bộ ngành liên quan phải có sách lược phù hợp.
Xu thế giới trẻ thích việc làm ở thành thị hơn là nông thôn:
Một nghiên cứu của Emi Yasuda và ctv (2021) nghiên cứu về “Nghề nghiệp và quan điểm về nghề nghiệp của sinh viên đang học tại Đại học Cần Thơ”, khảo sát trên 1.800 sinh viên chưa tốt nghiệp và 600 sinh viên đã tốt nghiệp, kết quả cho thấy số sinh viên mong muốn làm việc ở thành thị là cao nhất (79,9%), số còn lại mong muốn về nông thôn (9,7%) hoặc chấp nhận đi nước ngoài (8,3%) và số ít sẵn sàng nhận công việc ở bất cứ đâu (2,1%). Chọn nơi làm việc ở đâu cũng liên quan với nghành nghề đang học và được định hướng từ đầu ngay khi chọn ngành, cụ thể sinh viên khối ngành kỹ thuật/nông nghiệp có xu hướng làm việc ở thành thị (76,9%) thấp hơn sinh viên khối ngành kinh tế, và làm việc nước ngoài (13,5%) cao hơn so với 2 khối ngành còn lại. Điều này cho thấy hầu hết giới trẻ ngày nay, ngay cả được đào tạo về lĩnh vực nông nghiệp, đều có xu hướng làm việc ở thành phố, kể cả tìm kiếm cơ hội việc làm ở nước ngoài. Điều này cũng cảnh báo cho sự thiếu hụt nguồn lực lao động nông nghiệp chất lượng cao ở vùng nông thôn [3].
Bảng 1: Mong muốn nơi làm việc của sinh viên phân theo giới tính, khối ngành và hoàn cảnh kinh tế gia đình, năm 2021
Nhóm Sinh viên |
Thành thị (%) |
Nông thôn (%) |
Nước ngoài (%) |
Bất kỳ nơi nào (%) |
Giới tính |
|
|
|
|
Nam |
75,71 |
12,86 |
10,00 |
1,43 |
Nữ |
84,11 |
6,54 |
6,54 |
2,80 |
Khối Ngành |
||||
Kinh Tế |
87,72 |
5,26 |
5,26 |
1,75 |
Kỹ thuật/Nông nghiệp |
76,92 |
7,69 |
13,46 |
1,92 |
KHXH&NV |
77,94 |
11,76 |
7,35 |
2,94 |
Hoàn cảnh gia đình |
||||
Khó khăn |
95,24 |
4,76 |
||
Trung Bình |
85,23 |
7,95 |
3,41 |
3,41 |
Khá |
80,00 |
15,00 |
5,00 |
|
Trung bình chung |
79,91 |
9,70 |
8,27 |
2,12 |
Nguồn: Emi Yasuda và ctv (2021)
Xu hướng sinh viên nông nghiệp sau khi tốt nghiệp ra trường tự tạo việc làm, tự khởi nghiệp với ngành nghề đã học - trở thành người làm nông chuyên nghiệp là rất hiếm hoi. Khảo sát của Khoa Phát triển nông thôn trên 233 sinh viên sau khi ra trường một năm, chỉ có 3,0% sinh viên là tự tạo việc làm hay tự khởi nghiệp doanh nghiệp nông nghiệp. Riêng sinh viên ngành nuôi trồng thủy sản và kinh tế nông nghiệp ra trường có một số tự tạo việc làm, trong khi những ngành khác không có sinh viên ra trường tự tạo việc làm (Bảng 2). Kết quả này cho thấy xu thế sinh viên được đào tạo bài bản, đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp tiềm năng, tự tạo việc làm là rất thấp. Điều này có thể do điều kiện kinh tế gia đình hay hạn chế trong tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp.
Bảng 2: Tỷ lệ sinh viên tự tạo việc làm sau một năm ra trường phân theo ngành/chuyên ngành đào tạo, năm 2020
Nhóm ngành đào tạo |
Số lượng SV phản hồi |
Số SV tự tạo việc làm |
Tỷ lệ (%) |
Khuyến nông |
28 |
0 |
0 |
Nông học/KT nông nghiệp |
54 |
0 |
0 |
Nuôi trồng thủy sản |
61 |
4 |
6,6 |
Kinh doanh nông nghiệp |
33 |
0 |
0 |
Kinh tế nông nghiệp |
57 |
3 |
5,3 |
Tổng |
233 |
7 |
3,0 |
Nguồn: Khoa PTNT (2021)
2.3- Đào tạo nghề địa phương còn quan tâm số lượng hơn là chất lượng và bất cập trong hỗ trợ xúc tiến việc làm, khởi nghiệp
Một trong những chính sách quan trọng của Chính phủ có ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến lao động việc làm nông thôn là Quyết định số 1956/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó có nghề nông nghiệp đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng lao động, tạo việc làm nông thôn, tăng thu nhập, giảm nghèo, và đã tạo ra bước đột phá quan trọng làm thay đổi diện mạo nông thôn, đóng góp vào thành công của công cuộc xây dựng nông thôn mới Việt Nam.
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định trong công tác đào tạo nghề nhưng để trở thành người làm nông chuyên nghiệp là một thách thức lớn. Đào tạo nghề tại các địa phương, đặc biệt là nghề nông nghiệp còn quan tâm số lượng hơn là chất lượng và bất cập trong hỗ trợ xúc tiến việc làm, khởi nghiệp. Đào tạo nghề nông nghiệp hiện tại vẫn còn dựa trên nền tảng của nghề truyền thống, phương pháp truyền thống, chưa thật sự thay đổi 'tư duy sản xuất nông nghiệp' sang 'tư duy kinh tế nông nghiệp'. Đào tạo nghề nông nghiệp tại địa phương còn thiếu định hướng chiến lược, ngành nghề nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, lao động được đào tạo thiếu cơ hội tiếp cận với vốn, các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp cũng như áp dụng khoa học công nghệ sau đào tạo.
3- Con đường hướng đến phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp - Những đề xuất giải pháp
3.1- Có chính sách ưu tiên cung cấp học bổng cho đào tạo các ngành nông nghiệp then chốt tại các cơ sở đào tạo trọng điểm và khu vực
ĐBSCL là vùng trọng điểm về sản xuất nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực của cả nước và khu vực. Phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng sẽ gắn liền với phát triển nền nông nghiệp tiên tiến. Tuy nhiên, Chính phủ, các Bộ ngành liên quan chưa có chính sách ưu tiên cho đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp. Với những thách thức như đã phân tích ở phần trên và hướng đến phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp, Chính phủ cũng như các Bộ ngành liên quan cần có chính sách ưu tiên, cung cấp học bổng, kinh phí đào tạo và đầu tư cho các cơ sở đào tạo, trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp ở một số ngành then chốt. Điều này sẽ giải quyết một thực tế là các cơ sở đào tạo sẽ thu hút tuyển sinh các ngành nông nghiệp trở lại, một cách gián tiếp hay trực tiếp đóng góp vào sự phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp. Nếu không, đất nước có thể sẽ thiếu hụt nguồn nhân lực nông nghiệp này trong vài thập niên tới.
Các tổ chức kinh tế-xã hội cũng cần ý thức và có trách nhiệm xã hội cao trong đóng góp đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp, chung tay bằng nhiều hình thức, cung cấp học bổng, kinh phí đào tạo và đầu tư, cung cấp phương tiện thực hành, thực tập cho các cơ sở đào tạo, trường đại học, và Chính phủ cũng cần có cơ chế chính sách phù hợp cho hoạt động này.
3.2- Hướng nghiệp, giáo dục nông nghiệp cho học sinh phổ thông để thu hút giới trẻ yêu thích nghề nông nghiệp
Hướng nghiệp, giáo dục nông nghiệp cho học sinh phổ thông để thu hút giới trẻ yêu thích nghề nông nghiệp là con đường mang tính chiến lược dài hạn hướng đến phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp. Khoa Phát triển Nông thôn của Trường ĐHCT trong một nỗ lực đã từng bước giới thiệu hoạt động giáo dục nông nghiệp vào chương trình hướng nghiệp cho học sinh từ cấp 2, cấp 3 một cách chính thống như kinh nghiệm của Thái Lan.
Cách đây 12 năm (năm 2010) tổ chức SEARICE (Southeast Asia Regional Initiative for Community Empowerment - Sáng kiến Khu vực Đông Nam Á về Trao quyền cho Cộng đồng) đã tổ chức “Hội nghị vùng về Kết hợp Bảo tồn, Phát triển và Sử dụng nguồn tài nguyên cây trồng vào giảng dạy trong trường học” trong bối cảnh giới trẻ xa rời nông nghiệp, nhiều trường đại học như ở Thái Lan và Philippines không có sinh viên học các ngành nông nghiệp, trong khi các ngành kinh tế, máy tính, y tế và khoa học xã hội lại dư thừa [4].
Để khắc phục tình trạng trên, Thái Lan đã có sáng kiến hướng nghiệp rất sớm cho học sinh. Đưa giáo dục nông nghiệp vào chương trình hướng nghiệp cho học sinh Trung học (tổ chức cho học sinh sưu tập các nguồn gen cây trồng, lớp học trên đồng ruộng,..). Các nhà giáo dục tin rằng các hoạt động hướng nghiệp đích thực này sẽ giúp cho học sinh quý trọng nông nghiệp, yêu quý quê hương và có trách nhiệm với quê hương, cộng đồng. Họ cũng tin rằng những học sinh được rèn luyện chắc chắn sẽ chọn ngành nông nghiệp và sau khi ra trường sẽ phục vụ cho sự phát triển của quê hương họ.
Một số trường đại học của Philippines tham gia dự án đã đưa các hoạt động bảo tồn và cải thiện nguồn gien cây trồng vào chương trình đào tạo chính quy. Cách làm này giống như Trường Đại học Cần Thơ mà Giáo sư Võ-Tòng Xuân đã khởi xướng cho sinh viên ngành trồng trọt sưu tập các giống lúa bản địa, thành quả là ngày nay Đại học Cần Thơ đã có ngân hàng gien về giống lúa với hàng ngàn giống quý hiếm được bảo tồn, nhiều thế hệ sinh viên rất tự hào và yêu nghề vì đã làm điều này.
Ở Nhật Bản giáo dục nông nghiệp cho trẻ là bắt buộc. Theo lời của Ino Mayu – một chuyên gia về phát triển cộng đồng ở Việt Nam cho biết “Người Nhật bây giờ cũng ngày càng ít làm nông. Nhưng chính phủ thì không ngừng khuyến khích. Giáo dục cho trẻ em biết đến nông nghiệp là những bài học bắt buộc”.
3.3- Mô hình Trường Trung học nông nghiệp: Đào tạo nông dân tương lai- Hình thành đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp
Nhật Bản là quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới với nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh. Dù vậy, Nhật Bản ngày nay vẫn còn duy trì mô hình Trường Trung học nông nghiệp nhằm đào tạo những nông dân tương lai – nông dân chuyên nghiệp. Học sinh trung học ở trường này được học cả về văn hóa và khoa học nông nghiệp ứng dụng, học và thực hành sản xuất toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất của ngành hàng nông nghiệp để trở thành những nông dân chuyên nghiệp. Mô hình Trường Trung học nông nghiệp đào tạo nông dân tương lai đặt tại tỉnh Saga, được bảo trợ của Chính phủ và chính quyền tỉnh Saga. Đây là mô hình mà ĐBSCL có thể tham khảo ứng dụng – là con đường hướng đến phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp tại ĐBSCL.
3.4- Cần có chiến lược và định hướng đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn
Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn cũng là con đường góp phần hình thành đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp. Có thể nói đây là giải pháp khả thi hướng đến tri thức hóa nông dân - phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp bởi vì nông dân được cung cấp kiến thức, kỹ năng làm nông một cách trực tiếp. Với những hạn chế và tồn tại như đã phân tích ở phần trước và hướng đến nỗ lực tri hóa nông dân, đào tạo nghề nông thôn ĐBSCL trong thời gian tới có thể tập trung hướng đến việc đào tạo đáp ứng yêu cầu và phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Song song đó giải quyết các tồn đọng của công tác đào tạo nghề nông thôn, quan tâm hơn về chất lượng, chú trọng việc hỗ trợ xúc tiến việc làm, khởi nghiệp sau đào tạo. Đào tạo nghề nông nghiệp hướng đến nông dân chuyên nghiệp phải thay đổi 'tư duy sản xuất nông nghiệp' sang 'tư duy kinh tế nông nghiệp'. Đào tạo nghề nông nghiệp tại địa phương cần định hướng chiến lược, ngành nghề nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, có thể tập trung đào tạo các ngành sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, tiến tới nông nghiệp thông minh, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp gắn với du lịch, v.v.
Xuất khẩu lao động nông nghiệp cũng là kênh phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp. Hiện tại xuất khẩu lao động thiếu định hướng cho ngành nghề nông nghiệp, đặc biệt lao động phổ thông. Xuất khẩu lao động cần có chiến lược tốt hơn để lực lượng lao động này học tập các kinh nghiện, tiến bộ KHCN trở về phát triển kinh tế đất nước – đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp tương lai.
4- Những khuyến cáo
- Con đường hướng đến phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp - trong đó các tổ chức đào tạo, trường đại học đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tri thức cho người nông dân, hỗ trợ nông dân trở thành người làm nông chuyên nghiệp. Mặc dù họ có trách nhiệm xã hội cao, đồng hành cùng với các sáng kiến, chiến lược tri thức hóa cho nông dân, tuy nhiên vẫn cần những chính sách phù hợp để phát huy, thúc đẩy mạnh mẽ vai trò này.
- Phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp, không những chỉ chuyên nghiệp về kiến thức, kỹ năng trong sản xuất mà còn chuyên nghiệp cả về trách nhiệm với sản phẩm của họ làm ra, vì hạnh phúc người tiêu dùng và cộng đồng.
- Phát triển đội ngũ người làm nông chuyên nghiệp, cũng phải song hành với phát triển đội ngũ người làm quản lý, dịch vụ chuyên nghiệp, đặc biệt trong xu thế của nông nghiệp hiện đại, hội nhập và toàn cầu hóa.
Tài liệu tham khảo:
[1] Thủ Tướng Chính phủ (2022). Quyết định Số 150/QĐ-TTg, Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hà nội, 28/01/2022.
[2] Jun-Ichi Sakagami (2019). Bài giảng Hệ thống canh tác nhiệt đới. Tài liệu không xuất bản. Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.
[3] Emi Yasuda, ND. Cần, NV. Nay và NT. Phương Thảo (2021). Nghề nghiệp và quan điểm về nghề nghiệp của sinh viên đang học tại Đại học Cần Thơ. Báo cáo đề tài HTQT.
[4] SEARICE (2010). Regional Workshop on Integration of PGR CDU in School Function. June 21-24, 2010. Nan, Thailand.
[1] PGS. TS. Nguyễn Duy Cần, Trưởng Khoa PTNT, Trường Đại học Cần Thơ
[2] GS. TS. Trần Ngọc Hải, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Cần Thơ
[3] GS. TS. Hà Thanh Toàn, Hiệu trưởng, Trường Đại học Cần Thơ
[4] Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan: "Nông dân chuyên nghiệp là người có tri thức, vừa có kiến thức, kỹ năng sản xuất, vừa có tư duy kinh tế; Nông dân chuyên nghiệp trước hết là người có tâm, biết nghĩ đến sức khoẻ của người khác, không làm tổn thương lợi ích chung của cộng đồng, là người có kiến thức và hành động vì một nền nông nghiệp phát triển bền vững cho hôm nay và cho thế hệ tương lai; Nông dân chuyên nghiệp cũng là người hiểu rõ sức mạnh của tinh thần hợp tác, tự nguyện tham gia vào các tổ chức kinh tế tập thể; …".