Page 260 - Toan canh nguon nhan luc DBSCL va vai tro cua truong DHCT
P. 260
gian giảng dạy mà tham gia các hoạt động nghiên cứu tại công ty, nắm giữ
chức vụ, cổ phần tại công ty, đó không phải là tường hợp ngoại lệ. Kể từ năm
1990 đến nay, hình thức hợp tác liên kết này đã phát triển nhanh, không chỉ
các giáo sư tham gia các hoạt động nghiên cứu tại các doanh nghiệp mà nhiều
thành viên trẻ của MIT cũng có cơ hội tham gia các hoạt động nghiên cứu đó.
9.6.2 Kinh nghiệm hỗ trợ KNĐMST của Đại học Quốc gia
Singapore (NUS)
Đại học quốc gia Singapore (NUS) được thành lập năm 1905, đây là
trường công lớn nhất của Singapore. NUS được đánh giá là một trong những
đại học hàng đầu châu Á và thế giới. Năm 2021, NUS đứng thứ 11 trong bảng
xếp hạng các trường đại học danh tiếng nhất trên thế giới và là đại học đứng
đầu châu Á theo bảng xếp hạng đại học QS World University Ranking. NUS
có 42.598 sinh viên trong đó có 30.473 sinh viên đại học, 12.125 sinh viên
sau đại học và đội ngũ giảng viên gồm 1.820 người. NUS đã học hỏi kinh
nghiệm đào tạo KNĐMST ở Mỹ từ khá sớm. Năm 2001, NUS đã lần đầu tiên
ra đời một chương trình đào tạo mang tên National Overseas Colleges (NOC).
Đây là chương trình đào tạo khởi nghiệp cho sinh viên tại các thành phố có
hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển như Silicon Valley, New York và
Stockholm. Qua đó, sinh viên NUS được đưa ra nước ngoài thực tập tại các
công ty khởi nghiệp trong vòng một năm. Đến năm 2019, NUS đã có 2.800
sinh viên hoàn thành chương trình và hàng năm trường nhận tới hơn 1.000 hồ
sơ cho hơn 100 suất. Hiện NOC đã có mặt tại 12 thành phố trên toàn cầu.
Theo đánh giá của NOC, các sinh viên tham gia NOC có xác suất thành chủ
doanh nghiệp cao hơn gấp 10 lần sinh viên NUS khác. Hoạt động KNĐMST
của NUS trong những năm qua không chỉ thể hiện qua số sinh viên được thực
tập tại các công ty khởi nghiệp thành công mà còn thể hiện qua số lượng
doanh nghiệp của NUS gia tăng nhanh. KNĐMST giúp NUS tăng cường được
các hoạt động thương mại hoá công nghệ dựa trên việc NUS thúc đẩy việc
thành lập các doanh nghiệp. Đến năm 2004, NUS đã thành lập 82 công ty đã
thành lập, chủ yếu thành lập các công ty hoạt động thương mại hoá các sáng
chế phát minh. Từ năm 2000 - 2004, mỗi năm NUS thành lập khoảng 5 doanh
nghiệp, thấp hơn MIT (23 doanh nghiệp một năm), Stanford (13 doanh nghiệp
một năm) hoặc Harvard (7 doanh nghiệp một năm). Giai đoạn 2004 – 2019,
NUS đã thành lập 281 doanh nghiệp. Nhiều công ty của NUS không chỉ huy
động được số vốn đầu tư lớn mà còn phát triển mạnh mẽ trên thị trường quốc
tế. NUS đã tạo ra một số sản phẩm hết sức nổi tiếng trên thị trường từ các
doanh nghiệp khởi nghiệp, ví dụ như Block 71 - được thành lập bởi NUS
246