Page 61 - Nong nghiep DBSCL hien trang va dinh huong phat trien (GS.TS. Nguyen Thanh Phuong)_16x24_(392p)
P. 61

Tỉnh  Cà  Mau  đã  bố  trí  52  điểm  quan  trắc  nước  mặt  trên  toàn  tỉnh
          (UBND tỉnh Cà Mau, 2020). Kết quả cho thấy giai đoạn 2015 đến tháng 3
          năm 2020 chất lượng môi trường nước mặt tại khu vực nuôi trồng và chế
          biến thủy sản có sự biến động theo chiều hướng được cải thiện. Một số
          điểm nóng về ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng và vi sinh liên quan đến các
          hoạt động cế biến thủy sản nhưng cũng được cải thiện dần trong những
          năm gần đây. Tại các điểm quan trắc thuộc vùng canh tác nông nghiệp trên
          địa bàn tỉnh Cà Mau, có nơi pH nước rất thấp (2,90 – 4,42) và tổng Fe rất cao
          (10-54 mg/L) như khu vực Kênh 29, ấp 10, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh.
          Do đó, cần lưu ý nước mặt tại khu vực này khi sử dụng cho canh tác nông
          nghiệp. Quan trắc nước mặt trên sông Cổ Chiên từ 6/2017 đến 6/2018, Hoa
          et al (2020) cho rằng nước mặt đã bị ô nhiễm hữu cơ, kim loại và dầu mỡ; các
          kim loại nặng như Fe, As và Zn khá cao cho đời sống thủy sinh vật; đặc biệt
          dầu được phát hiện ở nồng độ dao động từ 0,5-9 mg/L.
               Qua số liệu quan trắc nước mặt ở một số tỉnh cho thấy chất lượng nước
          mặt vùng nước lợ đang bị đe dọa suy giảm chất lượng từ chất hữu cơ và dinh
          dưỡng. Chính quyền các tỉnh đã quan tâm ban hành quy định về quản lý và
          xử lý chất thải từ nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng. Việc thực thi áp
          dụng các quy định này cần được theo dõi và đánh giá.

               3.1.2  Diễn biến xâm nhập mặn
               Xâm nhập mặn là một vấn đề ảnh hưởng lớn đến canh tác nông nghiệp
          và cấp nước sinh hoạt, sử dụng đất cho các vùng tiếp giáp giữa vùng ngọt và
          lợ. Do đó vấn đề xâm nhập mặn có thể gây thiệt hại cho các mô hình sinh kế
          và rất cần được quan tâm quan trắc và cảnh báo.

               Mạng lưới trạm đo mặn ở ĐBSCL bắt đầu hình thành từ thập niên 30,
          40 của thế kỷ XX và không ngừng được đầu tư và phát triển. Từ năm 1995,
          trong mạng lưới mặn cơ bản do Tổng cục Khí tượng thuỷ văn trước đây quản
          lý và hiện nay do Bộ NN&PTNT quản lý có trên 30 trạm. Ngoài ra còn có
          các trạm đo mặn do các ngành khác và địa phương xây dựng và tổ chức đo.
          Tại các trạm đo mặn thuộc lưới trạm cơ bản, tiến hành đo mặn theo chế độ
          đặc trưng vào các ngày triều cường và triều kiệt.

               Kết quả quan trắc từ mạng lưới đo mặn tại các điểm thuộc các cửa sông
          Cửu Long cho thấy độ mặn năm 2016 cao hơn cùng kỳ năm 2015 (Hình 3.3)
          từ 1,5 đến 8,2 g/L và mức độ tăng khác nhau theo vị trí. Độ mặn trung bình
          tháng và độ mặn lớn nhất trong năm thường xuất hiện trong tháng 3 hoặc
          tháng 4. Chiều dài xâm nhập của độ mặn 4‰ khoảng 50 - 57 km, trong đó


          50
   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66