Page 266 - SDMD CNKT va CNTT trong tien trinh CNH_HDH DBSCL
P. 266
Nhiều loài thực vật chứa tinh dầu và có hương thơm nên được dùng làm
gia vị cho thực phẩm như hành, ngò, rau răm, quế, gừng, sả,… Tinh dầu có
hoạt tính kháng oxy tốt nên có tác dụng bảo quản thực phẩm. Ngoài ra, do có
hương dễ chịu nên nó được dùng làm nước hoa, làm nước xịt phòng, xông
hơi, làm hương trong mỹ phẩm; đây là hướng tiêu thụ mạnh nhất của tinh dầu.
Bên cạnh đó, nhiều tinh dầu có dược tính nên có mặt trong các sản phẩm dược
phẩm. Ví dụ như: tinh dầu bạc hà chứa nhiều menthol có tác dụng kích thích
thần kinh, giúp giảm đau tại chỗ, thường dùng trong các chế phẩm dạng xoa.
Tinh dầu hương nhu chứa eugenol dùng giảm đau, sát trùng. Tinh dầu cam,
quýt, chanh dùng làm thuốc kích thích tiêu hóa. Tinh dầu tỏi, tinh dầu hành
làm giảm cholesterol, ngừa bệnh xơ cứng động mạch và ung thư. Mặt khác,
tinh dầu còn được dùng như loại thuốc trừ sâu sinh học (Thạch, 2003). Vì thế,
ngành sản xuất tinh dầu trên thế giới đang ngày càng phát triển, tính đến năm
2021, thế giới đã xác định được khoảng 3000 loài thực vật có tinh dầu với
khoảng 250 loài đã được khai thác và sử dụng. Sản lượng tinh dầu trên toàn
thế giới ước tính đạt mức 370.00 tấn năm 2020 tương ứng hơn 10 tỷ USD.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nguồn tài nguyên
thực vật phong phú và đa dạng, đặc biệt là nhóm các cây có tinh dầu. Số loài
có chứa tinh dầu trong hệ thực vật Việt Nam gồm khoảng 657 loài thuộc 357
chi và 114 họ. Các loài chứa nhiều tinh dầu là cúc (Asteraceae), cam
(Rutaceae), gừng (Zingiberaceae), bạc hà (Lamiaceae), long não
(Lauraceae),… nên được đánh giá là một trong những quốc gia có nguồn thực
vật chứa tinh dầu lớn trên thế giới (Trung tâm Sinh học thực nghiệm, 2021).
ĐBSCL có khí hậu nhiệt đới và đất đai màu mỡ nên thuận lợi cho hệ thực vật
phát triển bao gồm cây dược liệu và cây chứa tinh dầu. Do vậy, tiềm năng để
khai thác sản xuất tinh dầu ở ĐBSCL là mang tính khả thi cao.
12.4 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhìn chung, việc sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, sàng
lọc các hoạt chất sinh học mới, ít độc tính và an toàn hơn là xu hướng hiện
nay. ĐBSCL có tiềm năng lớn trong việc cung ứng các nguồn dược liệu để
đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe theo xu hướng này. Chính phủ cũng đã
ban hành quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể các vùng dược liệu trọng
điểm, khai thác bền vững dược liệu tự nhiên, sản xuất dược liệu quy mô lớn
và chất lượng đạt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới GACP-WHO. Như
vậy, Việt Nam và ĐBSCL nói riêng có được những điều kiện thuận lợi nhất
định để phát triển bền vững trong nuôi trồng dược liệu. Mặt khác, để đầu ra
ổn định, cần có sự kết nối chặt chẽ giữa Nhà nước - Nhà khoa học - Doanh
252