Page 208 - SDMD CNKT va CNTT trong tien trinh CNH_HDH DBSCL
P. 208
môi trường nước sẽ tự động gửi dữ liệu về máy chủ. Tại máy chủ, phần mềm
thu thập dữ liệu sẽ đánh giá hiện trạng nguồn nước dựa trên các yếu tố như:
mực nước, độ mặn, độ pH, độ đục,… để có cảnh báo và hành động kịp thời.
Kết hợp với mô hình thủy lực của cả vùng, phần mềm sẽ đề xuất kịch bản đóng
mở cống phù hợp. Sau khi được xem xét và phê duyệt của cơ quan quản lý,
lịch đóng/mở cống sẽ được truyền từ máy chủ đến các máy trạm. Tại máy
trạm, các cơ cấu động lực sẽ được kích hoạt để đóng/mở cống tương ứng. Qua
thực tiễn cho thấy công trình được xây dựng cần phải được tổ chức quản lý
vận hành khai thác phù hợp nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả và bền vững.
Điều này đã được chứng minh bằng các số liệu về hiện trạng công trình, hơn
nữa đặc điểm thủy văn thủy lực phức tạp của vùng ĐBSCL càng làm rõ hơn
cơ sở khách quan là phải có quy trình quản lý vận hành CTTL phù hợp. Xu
thế tự động hóa và hiện đại hóa là xu thế tất yếu và đề án “Hiện đại hóa hệ
thống thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững tại các
tiểu vùng sinh thái vùng ĐBSCL” đã được phê duyệt theo Quyết định số
633/QĐ-TTg ngày 12 tháng 5 năm 2020 (Thủ tướng Chính phủ, 2020).
10.3 MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TRÌNH
THỦY LỢI ĐBSCL
Trường hợp 1: Đánh giá hiện trạng hệ thống CTTL và khả năng đáp
ứng nhu cầu của các ngành từ các hồ chứa trong bối cảnh BĐKH tại vùng
Bảy Núi, tỉnh An Giang (Khanh và ctv., 2022).
Một số kết quả chính:
Bản đồ hiện trạng hệ thống công trình thủy lợi vùng Bảy Núi, tỉnh An
Giang và cơ cấu hệ thống công trình thủy lợi lần lượt được trình bày trong
Hình 10.6 và Hình 10.7 (Khanh và ctv., 2022). Hình 10.6 và Hình 10.7 cho
thấy tỷ lệ kênh và bờ bao chiếm tỷ lệ 100% tại khu vực vùng triền (khu vực
có cao độ từ +2,0 m đến +5,0 m), trong khi đó, tỷ lệ về hồ chứa thì khu vực
vùng cao (khu vực có cao độ từ +5,0 m đến +30,0 m) chiếm tỷ lệ 100%. Số
lượng cống và trạm bơm lần lượt chiếm các tỷ lệ 86% và 84% cho vùng triền;
14% và 16% cho vùng cao.
Tỷ trọng kênh và bờ bao chiếm tỷ trọng 100% tại khu vực vùng triền
(là khu vực có cao độ từ +2,0 đến +5,0 m), trong khi đó tỷ trọng về hồ chứa
thì khu vực vùng cao (là khu vực có cao độ từ +5,0 đến +30,0 m) chiếm tỷ
trọng 100%. Số lượng cống và trạm bơm lần lượt chiếm các tỷ trọng 86% và
84% cho vùng triền; 14% và 16% cho vùng cao.
194