Page 195 - Công nghệ kỹ thuật và công nghệ thông tin trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đồng bằng sông Cửu Long
P. 195
Chương 10
NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH THỦY LỢI
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
*
Trần Văn Tỷ , Cù Ngọc Thắng, Đinh Văn Duy, Lê Hải Trí
Trường Bách khoa, Trường Đại học Cần Thơ
*
( Email: tvty@ctu.edu.vn)
10.1 HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TRÌNH THỦY LỢI
10.1.1 Công trình thủy lợi: Cống, trạm bơm và hồ chứa
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở vùng cực Nam của Việt
Nam, có hệ thống sông ngòi dày đặc. Tổng diện tích đất tự nhiên ở ĐBSCL
xấp xỉ 40.000 km². Trong đó, diện tích đất cho nông nghiệp khoảng 30.000
2
km , chiếm 25% diện tích canh tác nông nghiệp của cả nước và ĐBSCL đóng
góp 54% sản lượng lúa và xấp xỉ 60% sản lượng thủy sản (Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn [NN&PTNT], 2021).
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, khoảng 10 năm gần đây, mức
độ và diễn biến của thời tiết theo hướng bất lợi (tình trạng hạn hán, xâm nhập
mặn ngày càng gay gắt). Trước việc ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH),
đặc biệt là phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn, vùng ĐBSCL đã triển
khai nhiều dự án công trình kiên cố trị giá hàng ngàn tỷ đồng. Hiện nay,
ĐBSCL có trên 15.359 công trình thủy lợi, phổ biến là cống lấy nước và một
số trạm bơm, hồ chứa (Bảng 10.1) (Trung & Kiên, 2021).
Với ảnh hưởng của chế độ gió mùa châu Á đã tạo cho đặc trưng nguồn
nước giữa hai mùa khác nhau trong năm: mùa khô và mùa mưa. Trong đó,
lượng mưa trong mùa mưa chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa cả năm, và
mùa lũ thường xuất hiện gần như cùng thời điểm với mùa mưa. Hệ thống đê
bao và hạ tầng công trình thủy lợi đã được xây dựng ở ĐBSCL từ những năm
1990 nhằm giúp tăng mùa vụ và giảm thiểu tác động của lũ hàng năm ở các
vùng thượng nguồn. Cùng với sự phát triển kinh tế, các khu dân cư, đường
giao thông, các thành phố cùng với các dịch vụ giải trí được xây mới và mở
rộng đã dần dần thu hẹp diện tích rừng, mặt đệm và mặt nước. Bên cạnh đó,
việc mở rộng diện tích canh tác, khu công nghiệp và xây các đập thủy điện ở
các quốc gia thượng nguồn đã làm giảm nguồn nước và phù sa và đồng thời
181