Page 190 - SDMD CNKT va CNTT trong tien trinh CNH_HDH DBSCL
P. 190

9.5  KẾT LUẬN

               Nghiên cứu này góp phần dự đoán tình trạng lây nhiễm bệnh trên tôm,
          giúp người nuôi tôm tìm ra những biện pháp giảm thiểu nguy cơ lây bệnh từ
          các vùng lân cận. Sự kết hợp giữa yếu tố địa lý và máy học đã cung cấp khả
          năng dự đoán toàn diện và hiển thị kết quả trực quan trên bản đồ. Việc hiển
          thị các khu vực nhiễm bệnh trên bản đồ thực sự có ý nghĩa trong việc đánh
          giá tình trạng lây nhiễm ở khu vực phía Đông ĐBSCL. Mức độ lây nhiễm
          giúp người nuôi tôm tăng khả năng quản lý bệnh. Cụ thể, các vùng bị nhiễm
          bệnh nặng có thể liên quan đến công tác quản lý chưa chặt chẽ, gây lây nhiễm
          chéo giữa các ao nuôi hoặc nguồn giống bị nhiễm bệnh từ con giống bố mẹ,
          trong khi ở các vùng nuôi ít bị nhiễm bệnh cho thấy dịch bệnh được kiểm soát
          tốt hơn. Trên cơ sở đó, người nuôi tôm sẽ dễ dàng tìm nơi thích hợp để tạo ao
          mới hoặc chuẩn bị các biện pháp thích hợp để tránh lây nhiễm.

                Liên quan đến sự lây lan của dịch bệnh, việc sử dụng GIS trong nghiên
          cứu này góp phần làm rõ đường lây truyền mầm bệnh từ các ao nuôi lân cận,
          trại sản xuất giống và các yếu tố sông ngòi vùng hạ lưu sông Mekong. Ví dụ,
          ao nuôi bệnh mới được phát hiện sẽ được đặt câu hỏi liệu nó có bị ảnh hưởng
          bởi các ao nuôi lân cận nhiễm bệnh trước đó hay bị ảnh hưởng bởi nguồn
          giống từ trại giống. GIS góp phần tăng cường khả năng dự đoán hơn là chỉ
          dựa vào các triệu chứng lâm sàng. Hơn nữa, mỗi loại bệnh gây thiệt hại cho
          các ao nuôi tôm ở các khu vực khác nhau gây ra mức độ lây nhiễm cục bộ
          khác nhau. Hình ảnh trực quan của khu vực bị ảnh hưởng được dự đoán (Hình
          9.3) chỉ ra rằng bệnh ảnh hưởng đến ao nuôi trong phạm vi lân cận cao hơn
          so với những vùng ở xa. Bệnh chậm lớn lây lan cục bộ ở huyện Trần Đề, tỉnh
          Sóc Trăng, nguy hiểm hơn so với các khu vực khác của tỉnh này vì mật độ ao
          nuôi bị nhiễm bệnh được phát hiện nhiều ở đó; bệnh viêm gan tụy lây nhiễm
          mạnh ở huyện Duyên Hải và lan ra các vùng lân cận như huyện Cầu Ngang,
          huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh nơi có mạng lưới kênh rạch chằng chịt từ sông
          Cổ Chiên và sông Hậu. Tại Cà Mau, huyện Phú Tân bị ảnh hưởng nặng nề từ
          bệnh viêm gan tụy, sau đó lan sang các huyện lân cận gồm Cái Nước, phía
          Tây Trần Văn Thời và Năm Căn. Đáng chú ý, các khu vực bị ảnh hưởng ở
          tỉnh Cà Mau đều thuộc rừng ngập mặn, nơi có các kênh rạch phức tạp. Bệnh
          chậm lớn lây nhiễm chủ yếu ở vùng ven biển Trần Đề, huyện Vĩnh Châu của
          Sóc Trăng và Đông Hải của Bạc Liêu. Vì vậy, các khu vực lân cận bị nhiễm
          bệnh đã khiến dịch bệnh lan rộng trên địa bàn một cách mạnh mẽ. Sự lây lan
          dịch bệnh này được hiểu là do sự lây lan giữa các ao nuôi do mang mầm bệnh,
          dính lên quần áo, trang thiết bị nông nghiệp của con người hoặc sự di chuyển


          176
   185   186   187   188   189   190   191   192   193   194   195