Page 178 - Công nghệ kỹ thuật và công nghệ thông tin trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đồng bằng sông Cửu Long
P. 178
ước tính lớn hơn 11 triệu đô la Mỹ. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành, bao
gồm việc xác định mối quan hệ giữa bệnh đốm trắng và độ mặn (Ramos et
al., 2014) cũng như khả năng sống còn của vi khuẩn gây bệnh trong bùn ao
nuôi (Satheesh et al., 2019). Một trong những lo ngại về sự lây lan của bệnh
đốm trắng là cách thức lây nhiễm của nó. Một báo cáo về nguyên nhân của
dịch bệnh này là sự lây lan giữa các cá thể trong ao nuôi theo chiều dọc như
từ cha mẹ đến con cháu, hoặc theo chiều ngang giữa các cá thể thông qua
đường thức ăn, tiếp xúc với nước chứa vi rút, động vật săn mồi.
9.2.3 Bệnh chậm lớn
Ở Việt Nam, bệnh chậm lớn được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 2010.
Vi khuẩn gây ra bệnh này ký sinh trên ống gan tụy của tôm sú ở Việt Nam và
tạo ra nguy cơ cho ao nuôi tôm (Rajendran et al., 2016). Bệnh này không gây
tình trạng chết tôm, tuy nhiên nó làm chậm quá trình tăng trưởng và gây ra
thiệt hại về kinh tế. Ước tính cho thấy bệnh đã làm giảm sản lượng tôm Việt
Nam xuống khoảng 9 tấn/ha so với sản lượng thu hoạch thông thường là 12
tấn/ha (Shinn et al., 2016). Khi tôm nhiễm bệnh này thì trong tháng đầu tiên
sau khi thả, tốc độ tăng trưởng của tôm vẫn bình thường nhưng sau đó chậm
lại. Vấn đề này chắc chắn gây thiệt hại cho các hộ nuôi tôm và gây tổn thất
trực tiếp đối với thu nhập cũng như năng suất thu hoạch. Các dấu hiệu lâm
sàng của bệnh này không rõ ràng và khó nhận biết. Bệnh này chỉ được phát
hiện khi ao nuôi tôm đã bị nhiễm nặng (Rajendran et al., 2016). Để giảm thiểu
tác động tiêu cực của bệnh chậm lớn, việc xác định mối liên hệ giữa bệnh
chậm lớn và bệnh viêm gan tụy trên tôm sú (Penaeus vannamei) tại các nước
châu Á được nghiên cứu (Aranguren et al., 2017). Cho đến nay, việc nhận
biết và điều trị bệnh này vẫn rất khó khăn. Khi ao bị ảnh hưởng, giải pháp là
kết thúc mùa nuôi và thả tôm con mới. Việc xác định căn bệnh này cần dựa
trên tình trạng tăng trưởng, tôm cha mẹ, nguồn nước và quản lý môi trường
ao nuôi.
9.2.4 Ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh
Dịch bệnh trên tôm gây trực tiếp thiệt hại kinh tế cho nông dân ở các
tỉnh ven biển ĐBSCL. Theo VASEP (2011), căn bệnh này đã phá hủy gần
11.000 ha ao nuôi tôm ở Bạc Liêu, thiệt hại khoảng 2.000 đô la Mỹ trên mỗi
ha; 6.200 ha ở Trà Vinh, thiệt hại gần 1 triệu đô la Mỹ và 25.000 ha ở Sóc
Trăng, thiệt hại gần 75 triệu đô la Mỹ. Cụ thể, bệnh viêm gan tụy gây thiệt
hại cho 46.093 ha diện tích ao tôm ở ĐBSCL vào năm 2012. Diện tích bị ảnh
hưởng liên quan đến bệnh này đã được ghi nhận tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà
164